Cấu trúc chính trị Đệ Nhị Đế chế Pháp

Napoléon III, người thành lập đệ nhị đế chếTiêu chuẩn Hoàng gia Napoléon III

Cấu trúc của chính phủ Pháp trong Đệ Nhị Đế chế ít thay đổi so với Đệ Nhất đế chế. Nhưng Hoàng đế Napoléon III nhấn mạnh vai trò đế quốc của chính ông là nền tảng của chính phủ. Nếu chính phủ hướng dẫn người dân hướng tới công lý trong nước và hòa bình bên ngoài, thì đó là vai trò là hoàng đế, nắm giữ quyền lực của ông dưới quyền nam toàn cầu và đại diện cho tất cả mọi người, để làm lãnh đạo tối cao và bảo vệ thành quả của Cuộc cách mạng.[13]

Ông đã rất thường xuyên, trong khi ở tù hoặc lưu vong, đã trừng phạt các chính phủ đầu sỏ trước đây vì đã bỏ bê các câu hỏi xã hội rằng Pháp bắt buộc phải ưu tiên các giải pháp của họ. Câu trả lời của ông là tổ chức một hệ thống chính phủ dựa trên quy luật của "Tư tưởng Napoléon". Điều này có nghĩa là hoàng đế, người được bầu làm đại diện cho nền dân chủ, cai trị tối cao. Chính ông đã thu hút quyền lực và tính hợp pháp từ vai trò đại diện của Napoléon Bonaparte, "người đã xuất hiện từ Cách mạng Pháp như Minerva từ người đứng đầu Jove ".[13][3]

Việc chống nghị viện Hiến pháp Pháp năm 1852 do Napoléon III lập ra vào ngày 14 tháng 1 năm 1852, phần lớn là sự lặp lại của Hiến pháp năm 1848. Tất cả quyền lực hành pháp được giao cho hoàng đế, người, với tư cách là người đứng đầu nhà nước, chỉ chịu trách nhiệm với người dân. Người dân của Đế quốc, thiếu quyền dân chủ, đã dựa vào lòng nhân từ của hoàng đế hơn là dựa vào lòng nhân từ của các chính trị gia. Ông là để đề cử các thành viên của hội đồng nhà nước, có nhiệm vụ chuẩn bị luật pháp và của thượng viện, một cơ quan được thành lập vĩnh viễn như một bộ phận cấu thành của đế chế.[3]

Một sự đổi mới đã được thực hiện, đó là lập pháp đã được bầu bằng quyền bầu cử phổ thông, nhưng nó không có quyền chủ động, tất cả các luật đều được đề xuất bởi quyền hành pháp. Sự thay đổi chính trị mới này nhanh chóng được theo sau bởi hậu quả tương tự như đã tham dự của cuộc Brumaire. Vào ngày 2 tháng 12 năm 1852, Pháp, vẫn còn dưới tác dụng của di sản của Napoléon và nỗi sợ vô chính phủ, đã được trao quyền gần như nhất trí bởi một quyền lực tối cao, với tước hiệu là hoàng đế, với Napoléon III.[3]

Cơ quan lập pháp không được phép bầu tổng thống riêng hoặc điều chỉnh thủ tục riêng của mình, hoặc đề xuất luật hoặc sửa đổi, hoặc bỏ phiếu chi tiết về ngân sách hoặc để công khai thảo luận. Tương tự, quyền bầu cử phổ quát được giám sát và kiểm soát bằng phương thức ứng cử chính thức, bằng cách cấm phát biểu tự do và hành động trong các vấn đề bầu cử đối với phe đối lập, và bằng hoan hỉ theo cách để áp đảo Tự do bỏ phiếu trong quần chúng dân cư nông thôn. Báo chí đã phải chịu một hệ thống cautionnements ("bảo đảm", được gửi như một sự bảo đảm cho hành vi tốt) và avertissements (yêu cầu của chính quyền ngừng xuất bản một số điều nhất định), theo lệnh trừng phạt hoặc đàn áp. Sách đã chịu sự kiểm duyệt[3]

Để chống lại sự phản đối của các cá nhân, một giám sát của các nghi phạm đã được thiết lập. Cuộc tấn công của Felice Orsini vào hoàng đế năm 1858, mặc dù hoàn toàn là tiếng Ý, đã đóng vai trò là cái cớ để tăng mức độ nghiêm trọng của régime bởi luật an ninh chung (sûreté générale) cho phép thực tập, lưu đày hoặc trục xuất bất kỳ nghi phạm nào mà không cần xét xử.Cũng giống như cách giảng dạy công khai được giám sát chặt chẽ, việc giảng dạy triết học đã bị triệt tiêu trong lycée, và quyền lực kỷ luật của chính quyền được tăng lên.[3]

Trong bảy năm, Pháp không có cuộc sống dân chủ. Đế chế cai trị bởi một loạt toàn dân đầu phiếu. Cho đến năm 1857, phe đối lập không tồn tại; từ đó đến năm 1860 đã giảm xuống còn năm thành viên: Darimon, Émile Ollivier, Hénon, Jules FavreErnest Picard. Những người bảo hoàng đã chờ đợi không hoạt động sau nỗ lực mới và không thành công được thực hiện tại Frohsdorf vào năm 1853, bởi sự kết hợp của chính trịMitchéanist, để tái tạo một chế độ quân chủ sống ra khỏi đống đổ nát của hai gia đình hoàng gia.[3]